Chuyển đến nội dung chính

Chúng ta là ai?

Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia cho biết "Văn hóa Phùng Nguyên ->Văn hóa Đồng Đậu ->Văn hóa Gò Mun ->văn hoá Đông Sơn".





Ông Hán Văn Khẩn dựa trên một vài đồ dùng (như nha chương 玉璋 Yuzhang) có ở Văn hóa Long Sơn 龍山文化 thời nhà Ân và được tìm thấy ở Phùng Nguyên rồi kết luận.  


"Nghiên cứu so sánh trên đã cho thấy chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên là di dân từ vùng Phúc Kiến-Đông Bắc Quảng Đông, tức từ phía Đông Bắc. Nhưng họ là ai, nói ngôn ngữ gì, sống như thế nào, vì sao họ đến Việt Nam, đến theo đường nào, bằng cách nào?"


Vậy là ông Hán Văn Khẩn đã khẳng định các nền văn hóa của Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ là bắt nguồn từ vùng Phúc Kiến-Đông Bắc Quảng Đông. Điều này tương đương với dân tộc Việt nam ở đồng bằng Bắc Bộ là một bộ phận di cư từ Phúc Kiến-Đông Bắc Quảng Đông tới. 


Để xem Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia lập luận ra sao?


Việc khẳng định sự kế thừa văn hóa là phải có dẫn chứng 


- Văn hóa Phùng Nguyên: Phát hiện năm 1959, ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Đây là nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại Đồ đồng. Điểm độc đáo trong văn hóa Phùng Nguyên đó là hiện vật bằng đá rất phong phú về loại hình như: công cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức...cho thấy kỹ thuật chế tác đá đã đạt đến đỉnh cao. Đặc biệt, đồ trang sức được chế tác bằng đá, đá Nephirite, đá ngọc...là phổ biến. Đồ gốm được làm bằng bàn xoay, thường trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn chấm dải. Đã phát hiện những mẩu xỉ đồng.


- Văn hóa Đồng Đậu được gọi theo tên di chỉ đầu tiên được phát hiện năm 1962, ở thôn Đồng Đậu, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là sự phát triển tiếp nối của văn hóa Phùng Nguyên. Công cụ đá có số lượng ít và không được trau truốt. Hiện vật bằng xương cũng được phát hiện trong nhiều di chỉ. Đồ gốm với nhiều loại hình và hoa văn phong phú như: hoa văn hình sóng nước, khuông nhạc, đường tròn đồng tâm... Một số công cụ, vũ khí bằng đồng (lưỡi câu, mũi tên, lao...) được phát hiện trong nhiều di tích, cho thấy tính ưu việt của đồ đồng tạo nên năng suất lao động cao hơn đã được cư dân Đồng Đậu dần sử dụng phổ biến hơn.


- Văn hóa Gò Mun được gọi theo tên di chỉ đầu tiên được phát hiện năm 1961, ở xã Tú Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Văn hóa Gò Mun được hình thành trên nền tảng văn hóa Đồng Đậu trước đó. Công cụ đá giảm dần về số lượng và kỹ thuật chế tác. Thay vào đó, số lượng công cụ đồng dần tăng cao như: lưỡi câu, mũi lao, giáo... cho thấy đồ đồng đã dần trở thành công cụ thiết yếu, quan trọng trong lao động sản xuất. Đồ gốm có tiến bộ vượt bậc, hoa văn trang trí phong phú như: hoa văn chấm cuống rạ, in chấm tròn... Với sự phát triển đồ đồng, cư dân Gò Mun đã từng bước chế ngự thiên nhiên, làm chủ vùng châu thổ sông Hồng, tạo nền tảng cho nền văn hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ.


Tóm lược lại những gì Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia vừa diễn đạt như sau: 


Văn hóa Đồng Đậu "Công cụ đá có số lượng ít và không được trau truốt" là không hề có sự kế thừa gì về "đồ trang sức được chế tác bằng đá Nephirite, đá ngọc" như ở di chỉ Phùng Nguyên. 


Vậy tự thân trong lập luận Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia đã vô tình công nhận sự không chuẩn trong suy diễn. 


Nha chương 玉璋 Yuzhang có ở khắp Trung Quốc từ khoảng 4000 năm về trước. Nó là một loại đồ dẹt bằng đá cứng dẹt nhưng giòn có thể gãy. Về công dụng của nha chương có nhiều ý kiến tranh cãi. Các nhà nghiên cứu cho rằng với hình dáng mỏng dẹt khoảng 0,5cm đến 0,8cm chỉ đánh rơi cũng vỡ không thể dùng làm vũ khí được.


Nha chương thực chất chỉ là một cái chìa để mở khóa hòm. Người ta đút cái vật dèn dẹt dài ngắn khác nhau ấy vào một cái khe và đút sâu tới một ngưỡng nhất định thì cái đầu của nó thúc vào một cái lẫy thì có thể mở cái nắp hòm ra được. Cư dân phương Nam ít có nhu cầu bảo vệ tài sản, vì thế cái "nha chương" chỉ là dấu hiệu của sự ngoại lai. 


Người ta không hề tìm thấy cái nha chương là "đặc trưng" của Phùng Nguyên ở trong tất cả các nền văn hóa sau đó, và cũng không thấy chúng ở các di chỉ khác vùng châu thổ sông Hồng. Số các di chỉ cùng niên đại có thể phải lên tới 200 nhưng nha chương cũng chỉ có ở 2 di chỉ và trong một phạm vi nhỏ ở vùng Lâm Thao. Xét về mặt xác suất tìm thấy theo di chỉ thì văn hóa ngoại lai nha chương chỉ chiếm khoảng 1%, xét về diện tích thì văn hóa ngoại lai chỉ chiếm khoảng 1 phần nghìn.  


Việc tìm thấy vài cái nha chương trong di chỉ Phùng Nguyên chỉ nói lên sự hòa trộn một phần nào đó văn hóa của cư dân nhập cư vào cộng đồng người bản địa. Đó là điều mà Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia nên đính chính ngay và cho sửa sách giáo khoa. 


Do biến đổi khí hậu mà vào thời kỳ từ 5000 năm cho tới 3500 năm về trước vùng từ cao nguyên Khorat tới phía nam Quảng Tây không có mưa. Vùng này là hoang mạc khô cằn, không có người tiền sử sinh sống. Cư dân tiền sử đã di cư về vùng biển. 


Các cuộc chiến Xuân Thu cũng có thể đã để lại dấu ấn khiến cho dòng người chạy loạn gia tăng. 


Việc cộng đồng dân cư bản địa luôn nói một thứ tiếng Việt khác hẳn với các dòng người nhập cư, cho thấy họ đông hơn và văn hóa cũng như văn minh bản địa có tính quyết định. 


20 nghìn năm về trước mực nước biển thấp hơn hiện nay 120m. Khi ấy Vịnh Hạ Long là đồng bằng có cấu trúc Gò Đống nước tự chảy quanh.  Mực nước biển bắt đầu dâng cao dần cho tới khoảng 10 nghìn năm về trước thì đồng bằng Hạ Long chìm sâu dưới mực nước biển, nhưng đồng Bằng Bắc bộ như chúng ta biết ngày nay thì vẫn còn khô ráo và là rừng rậm nhiệt đới nguyên thủy cây cối cao lớn. Mực nước tiếp tục dâng trong vòng 4000 năm tiếp theo, và khoảng 6000 nghìn năm trước đây thì nước biển dâng tới Phú Thọ, nhấn chìm đồng bằng Bắc Bộ khi ấy xuống độ sâu trung bình khoảng 15m dưới mực nước biển. Trong suốt 6000 năm qua phù sa sông Hồng bồi đắp vịnh này thành ra đồng bằng Bắc Bộ ngày nay, đè lên đồng Bằng bắc Bộ cũ ở độ sâu tới 25m.


Cư dân Hạ Long di cư về phía bắc dãy Đông Triều là Bách Việt, cư dân Hạ Long di cư vào châu thổ sông Hồng là người Việt. Sự khác biệt văn hóa đã diễn ra khoảng 10 nghìn năm về trước. 


Theo dõi bản đồ khảo cổ của Trung Quốc chúng ta cũng thấy ngay vệt di chỉ 7000 năm tuổi 38,40,41,42,43,44,45,47 di cư từ biển vào, cùng đồng dạng với di chỉ Cái Bèo.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Champa giao thương với Iran

Tiền được đúc bằng bạc của vương quốc Funan (khoảng thế kỷ 1 tới 7)

Người Chăm Pa

Các di chỉ khảo cổ và văn hóa phi vật thể cho thấy người Chăm Pa quan niệm khi linh hồn người chết sẽ đi tới không gian khác mà không còn liên quan tới thế giới hiện tại. Họ quan niệm cuộc sống là cõi tạm. Người Chăm Pa kiêng gọi tên người chết, họ cũng không để người khác biết.  

Phù Nam

Tôi không có trong tay tài liệu cổ sử về dân tộc Chăm Pa cũng như các hình thái nhà nước trong khu vực mà chúng ta tạm gọi là Phù Nam. Để làm được điều này, ngoài việc đọc biết các nhận định của các nhà nghiên cứu, tôi cần phải tìm ra một yếu tố khách quan để thúc đẩy sự vận động.