Có nhiều nghiên cứu về lịch sử Malaysia. Trong nghiên cứu sau
https://core.ac.uk/download/pdf/228446358.pdf
Tác giả nghi ngờ không phải Alexandros hay con cháu của ông ta đã dẫn dân tộc Minangkabau tới vùng tây Sumatra mà là một vị chúa tể cai quản Đông-Tây.
Alexander sinh ngày 20 tháng 7 năm 356, người Macedonia. Ông được tôn vinh làm thủ lĩnh Liên minh các bộ tộc Hy Lạp. Vào năm 335 trước Công Nguyên, Alexandros đã vượt qua Hellespont tiến vào Tây Nam Á, đánh bại đội quân đông hơn nhiều lần của Darius và thống trị Ba Tư. Vào năm 326 trước Công Nguyên, Alexander chiến thắng người Ấn trong trận sông Hydaspes, mở rộng biên giới ra tới tận vùng Ngũ Hà của Ấn Độ.
Alexandros qua đời vào ngày 10 hoặc 11 tháng 6 năm 323 TCN tại cung điện của Nebuchadnezzar II tại Babylon ở tuổi 32.
Dân số Indonesia vào năm 1800 là 16.1 triệu và vào năm 1850 là 22.2 triệu. Như thế tỷ lệ tăng dân số vào khoảng 6.5‰.
Mức tăng dân số kể từ đầu Công Nguyên tới năm 1800 là (1.0065)^1800=424000 lần. Như vậy từ đầu Công Nguyên Minangkabau có 16100000/424000=138 người.
Nếu Minangkabau di cư tới tây Sumatra vào năm 300 trước Công Nguyên thì số lượng chỉ là chưa tới 20 người. Với số lượng ít ỏi này người di cư hoặc là bị giảm dần dân số và mất hẳn hoặc là bị đồng hóa. Như thế khả năng cao là vị Chúa Tể thống lĩnh Đông Tây là tổ tiên của Minangkabau không thể là Alexander cũng như con cháu của ông ta. Trong tất cả cổ thư có từ đầu công Nguyên về A dục Vương đại đế, thì chỉ có mẩu tin được ghi nhận trong Thủy Kinh Chú xác nhận thành Nê Lê do A Dục Vương xây. Khả năng rất cao Nê Lê là thành Cổ Loa. Truyền thuyết người Kinh kể A Dục Vương (An Dương Vương) sau khi thua Triệu Đà đã bỏ chạy ra biển ở cửa Hiền (thuộc Nghệ An).
Vậy thì khả năng cao Iskandar Zulkarnain, người đã đưa cư dân Mianangkabau tới vùng Marapi thuộc tây Sumatra là A Dục Vương. Số lượng cư dân đầu tiên chạy từ vùng Cửa Hiền tới Marapi thuộc tây Sumatra là khoảng 50 người.
Nó được dịch ra tiếng Anh: https://sci-hub.ru/10.2307/41559927?fbclid=IwAR3WF102AiXbGPSWXID_oZnpTjV4Q8cxtcQjIHRaKtZKKFc12mvfnK3jvNk
Trong cổ sử Malay có nhiều ghi chép nhiều tư liệu liên quan tới Chăm Pa và quá trình hình thành Singapur.
Maka Raja Jakanak-lah kěrajaan měnggantikan kěrajaan ayahanda baginda. Maka baginda běristěri akan sa-orang pěrěmpuan Pau Ji Bat Ji běranak sa-orang laki-laki Pau Kubah nama-nya. Sa-tělah Pau Kubah běsar, maka Raja Jakanak pun mati-lah. Maka Pau Kubah kěrajaan. Maka baginda běristěrikan Pau Měchat Maka baginda běranak běrapa laki-laki dan pěrěmpuan. Ada sa- orang anakanda baginda pěrěmpuan těrlalu balk paras-nya. Maka di-pinang oleh Raja Kujai , tiada di-běri-nya oleh Pau Kubah. Maka di-sěrang-nya oleh Raja Kujai. Maka orang Kujai pun běrpěrang-lah děngan orang Champa, těrlalu ramai. Pada suatu hari Raja Kujai měnyuroh pada Pěnghulu Běndahari Champa di-bawa-nya muafakat. Maka Pěnghulu Běndahari Champa pun kabul-lah mëmbukaï pintu. Hatta sěrta dinihari, maka di-buka- nya-lah pintu. Maka sěgala orang Kujai pun masok-lah běramok-lah děngan orang Champa; sa-těngah běrlěpas anak bini-nya, sa-těngah mělawan. Hatta alah, Raja Champa pun mati. Maka anak Raja Champa dan sěgala měntěri-nya pun lari-lah měmbawa diri-nya ka-sana ka-mari chěrai-běrai tiada běrkětahuan. Maka ada dua orang anak raja Champa, Inděra Běrma Shah sa-orang nama- nya, Shah Palembang sa-orang nama-nya. Maka kědua-nya lari běrpěrahu. Maka Shah Palembang lalu ka-Acheh. Maka Shah Inděra Běrma běrpěrahu lalu ka-Malaka. Maka těrlalu-lah suka-chita Sultan Mansur Shah mělihat sakalian měreka itu: maka sakalian-nya di-suroh baginda masok Islam. Maka Shah Inděra Bèrma děngan istěri-nya Kini Měrtam děngan sěgala orang těman- nya itu pun masok Islam. Maka Shah Inděra Bèrma di-jadikan Sultan Mansur Shah měntěri, těrlalu sangat di-kasehi oleh baginda akan Shah Inděra Bèrma, itii-lah asal Champa Malaka; sěgala Champa Malaka yang asal itu dari-pada sěgala anak chuchu-nya-lah
Trong đoạn cổ sử Malay trên có ghi về sự kiện có một công chúa của vua của dân tộc Kujai được gả cho vua của Champa, và vua của Champa đã phải nhượng đất cho người dân Kujai. Sau khi vua Champa băng hà, thì con thứ của ông là Inděra Běrma Shah lên thuyền bỏ chạy tới Aceh. Quốc vương Mansur Shah rất vui khi gặp họ. Ông đã ra lệnh cho anh ta chuyển sang đạo Hồi. Vì vậy, Shah Inděra Bèrma và vợ Kini Mértam và tất cả bạn bè của ông cũng cải sang đạo Hồi. Vì vậy, Shah Inděra Bèrma được phong làm Sultan Mansur Shah méntěri, bệ hạ rất yêu quý Shah Inděra Bèrma, đó là nguồn gốc của Champa Malaka; Tất cả những người Champa Malaka nguyên thủy đều từ tất cả những người con chuchu của ông.
Cổ sử Việt Nam có ghi sự kiện liên quan tới Huyền Trân công chúa. Năm 1306, Chúa Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari. Năm Đinh Mùi (1307), vào tháng 5, quốc vương Chế Mân chết. Chế Chí sinh năm 1284 là con trai của vua Chế Mân và chánh hậu Bhaskaradevi (người Java). Năm 1311, vua Trần Anh Tông sai quân đánh Chiêm Thành. [ĐVSK]:- Tháng 5 năm 1312, bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Chí đem về; phong em hắn Chế Năng. (Chế Đà A Bà Niêm) làm Á hầu trấn giữ. Chế Năng là con của thứ hậu Tapasi của vua Chế Mân, người Yavadvipa. [ĐVSK]:- Mùa thu, tháng 8, ngày 19, Tuyên Từ thái hậu băng. Sai Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn đi đánh Chiêm Thành. Tộc tướng nhà Lý là Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến chết tại trận. Quản Thiên võ quân Phạm Ngũ Lão tung quân đánh phía sau giặc. Quân giặc thua chạy, bắt được rất nhiều. Chế Năng bỏ chạy sang Java.
Để kiểm tra khả năng liệu có thể xảy ra sự kiện Chế Năng lên thuyền bỏ chạy sang Java chúng ta tìm cách ước tính lượng người di cư. Theo thống kê dân số thì dân Champa ở Malay là khoảng 10 nghìn. Nếu tính theo tỷ lệ tăng dân số chung của Malay là 6.5‰ thì vào năm 1300 lượng dân Cham di cư tới Malaka là 107 người. Con số này phù hợp với việc di cư bằng thuyền.
Việc di cư từ Việt Nam tới Malaka bằng thuyền chỉ có thể thực hiện được khi có gió thổi từ bắc xuống nam. Có hai loại gió, gió thổi từ vùng có khí áp cao tới khí áp thấp và gió do của các luồng xoáy bão. Ở biển Đông, vào mùa đông thì chỉ có gió lạnh từ Seberia thổi từ bắc về nam. Ở biển Đông vào mùa hè thì ngoài luồng khí lạnh thổi từ Nam Cực về biển Đông theo hướng từ nam lên bắc còn có thể có gió thổi từ bắc xuống nam do con bão tạo ra. Khả năng cao là sau khi bị thua trận vào 19/8/1318, Chế Năng đã chờ thời điểm có bão. Đây là thời điểm bão di chuyển về phía nam, vì thế khả năng Chế Năng chạy được về Malaka là có.
"Lê Thành Khôi (1981), Histoire du Vietnam des origines à 1858, Paris: Sudestasie, p.243".
Như vậy việc các vua gốc Nam Đảo ở Việt Nam bỏ chạy qua Malaysia là có thật. Khả năng cao A Dục Vương (An Dương Vương) cũng đã bỏ chạy như vậy sang Marapi thuộc tây Sumatra.
Tài liệu.
- https://tile.loc.gov/storage-services/service/gdc/gdcwdl/wd/l_/14/28/6/wdl_14286/wdl_14286.pdf
- https://sci-hub.ru/10.2307/41559927
- https://sci-hub.ru/10.2307/41505506
- https://biblioasia.nlb.gov.sg/vol-16/issue-2/jul-sep-2020/sangnila
Có vài bằng chứng cho thấy người Chăm có mặt tại Malacca từ thế kỷ 15:
1. Ghi chép của nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Duarte Barbosa, người đã đến Malacca vào năm 1503. Ông đã đề cập đến sự tồn tại của một "quốc gia Chăm" tại Malacca. Mặc dù không rõ ràng, nhưng một số nhà sử học cho đây là liên lạc đầu tiên về người Chăm tại Malacca. Tham khảo tại đây
2. Nhà thờ Chăm đầu tiên tại Malacca có tên Pagoda Chăm Baiton, được xây dựng vào khoảng năm 1567. Đây là bằng chứng kiến trúc cụ thể nhất về sự hiện diện người Chăm tại Malacca vào thế kỷ 16.
Trong tiếng Malaysia, nhà thờ Chăm Baiton được gọi là Masjid Bukit Beruang.
• Bukit là núi.
• Beruang là gấu.
Do vị trí của nhà thờ nằm trên ngọn núi có hình dáng giống gấu, nên theo tiếng Malaysia, tên của nhà thờ là Masjid Bukit Beruang có nghĩa là Nhà thờ Núi Gấu. Một số tài liệu cũng nhắc tới nhà thờ Baiton dưới tên Masjid Bukit Penaga. Penaga cũng có nghĩa là núi, vì vậy tên Masjid Bukit Penaga cũng có ý nghĩa là Nhà thờ Trên Ngọn Núi. Những tên Masjid Bukit Beruang và Masjid Bukit Penaga rất thông dụng và được sử dụng rộng rãi khi nhắc đến nhà thờ Baiton bằng tiếng Malaysia.
Một số thông tin về nhà thờ Baiton bằng tiếng Malaysia cụ thể như sau:
• Masjid Bukit Beruang terletak di atas Bukit Beruang, Perak, Malaysia. (Masjid Bukit Beruang nằm trên Bukit Beruang, Perak, Malaysia.)
• Masjid ini dibina pada kurun ke-13. Ia merupakan salah satu masjid tertua di Malaysia. (Nhà thờ này được xây dựng vào thế kỷ 13. Đây là một trong những nhà thờ lâu đời nhất ở Malaysia.)
• Masjid ini dibina pada zaman Sultan Muzaffar Shah (bertakhta 1445-1456). (Nhà thờ này được xây dựng dưới thời Sultan Muzaffar Shah (trị vì từ 1445 đến 1456).)
3. Tranh vẽ của nhà hàng hải hà Lan còn tồn tại, mô tả người Chăm và trang phục Chăm ở Malacca vào cuối thế kỷ 16. Đây là bằng chứng tại chỗ về những người Chăm sống ở Malacca trong thời gian này.
Các bằng chứng này, mặc dù không trực tiếp về sự hiện diện của người Chăm tại Malacca vào thế kỷ 15, nhưng cho thấy rằng sự hiện diện của người Chăm tại Malacca có thể bắt đầu sớm hơn nhiều, nhiều khả năng bắt nguồn từ các thế kỷ 15 và 16.
(Claude - https://poe.com/s/ZkgzYxsxn9tHD4jG9JTx)
Đồng tiền đúc vào năm 322 TCN, với hình Alexandros đang đuổi vua Poros ở mặt trái, bộ sưu tập của British Museum.


https://nghiencuulichsu.com/2016/08/31/tim-hieu-cong-dong-nguoi-cham-tai-viet-nam/
Trả lờiXóa