Các di chỉ khảo cổ và văn hóa phi vật thể cho thấy người Chăm Pa quan niệm khi linh hồn người chết sẽ đi tới không gian khác mà không còn liên quan tới thế giới hiện tại. Họ quan niệm cuộc sống là cõi tạm. Người Chăm Pa kiêng gọi tên người chết, họ cũng không để người khác biết.
Điều này là khác với quan niệm của người Kinh, cư dân thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cũng như của người các dân tộc thiểu số có tiếng nói thuộc phân nhánh ngữ hệ AustroAsia (Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xinh Mun, Xơ Đăng, X’Tiêng). Quan niệm linh hồn có thể gọi về ăn cơm cùng gia chủ và Ân - Dương phù trợ cho nhau là có ở văn hóa Sa Huỳnh, ở dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ở miền Trung có tiếng nói thuộc phân nhánh ngữ hệ AustroAsia.
Do có sự đứt đoạn về văn hóa Sa Huỳnh với văn hóa Chăm Pa nên Cham Pa là dân tộc di cư. Trong suốt thời kỳ từ năm 541 của Lý Nam Đế cho tới năm 1832 của Nguyễn Thái Tổ (Minh Mạng) xảy ra tới hơn 20 cuộc chiến lớn giữa dân tộc Kinh và Chăm. Như thế Chăm Pa khó có thể là người bản xứ cùng tồn tại với người Kinh từ nhiều nghìn năm về trước, bởi không dân tộc này thì dân tộc kia đã thôn tính và đồng hóa nhau.
Người Chăm Pa khó có thể là người bản xứ, vậy thì họ đã di cư từ đâu tới? Các nghiên cứu khảo cổ đã chỉ ra văn hóa Cham Pa và Sa Huỳnh là khác nhau, vậy người Chăm Pa di cư tới miền Trung vào khoảng thời gian ngay trước Đầu Công Nguyên.
Cuộc chiến Lý Thường Kiệt đánh Chăm Pa năm 1069 bên Lý Thường Kiệt có 40 nghìn quân, bên Chăm Pa có 20 nghìn quân. Thống kê dân số Đại Việt (đồng bằng Bắc Bộ) năm 1054 được 3.79 triệu. Vậy dân số của Chăm Pa vào năm 1060 là khoảng 1.8 triệu.
Lượng người Chăm Pa bị bắt về Đại Việt là 50 nghìn người. Đây là số người khỏe mạnh trên khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế (16 nghìn km²). Ước tính trong gia đình có cả trẻ nhỏ và người già từ 4 tới 5 người thì bị bắt 1 người. Như thế ước lượng số người Chăm Pa trên khu vực này là 225 nghìn. Ước tính trên toàn bộ diện tích miền Trung (120 nghìn km²) người Chăm Pa cũng là 1.7 triệu.
Lấy tốc độ gia tăng dân số của Chăm Pa bằng với Đại Việt, tức 2‰, thì vào đầu Công Nguyên dân số Chăm Pa là hơn 200 nghìn.
Hiện nay dân số Đài Loan là 24 triệu và Borneo là 25 triệu. Nếu ước tính tốc độ tăng dân số là bằng với Đại Việt, tức 2‰, thì vào đầu Công Nguyên dân số của Đài Loan và Borneo vào khoảng từ 400 nghìn cho tới 450 nghìn.
Dân số Đài Loan (và Borneo) vào năm 1950 là khoảng 7.5 triệu. Ước lượng với tốc độ tăng dân chỉ 1‰, thì dân số các đảo này vào đầu Công Nguyên cũng vào khoảng 1 triệu. Dân số Trung Quốc vào đầu Công Nguyên là 60 triệu. Nếu ước tính theo tỷ lệ dân số Đài Loan 24 triệu so với Trung Quốc 1400 triệu, thì vào đầu Công Nguyên Đài Loan cũng có khoảng 1 triệu dân.
Như vậy, vào đầu Công Nguyên, dân số ở đảo Đài Loan cũng như ở Borneo là vào khoảng từ 400 nghìn cho tới 1 triệu. Nếu quả thật đã có 200 nghìn người Chăm Pa di cư từ Borneo hay từ Đài Loan tới miền Trung của Việt Nam thì đó phải là những người trung niên khoẻ mạnh. Với khoảng 1 triệu dân mà có 200 nghìn người trung niên khỏe mạnh di cư là không thể. Như vậy người Chăm Pa đã vượt qua dãy Trường Sơn mà di cư tới vùng ven biển miền Trung vào khoảng thời gian đầu Công Nguyên.
Như chúng ta đã biết, 23 nghìn năm về trước mực nước biển thấp hơn ngày nay 130m. Dải đất hình chữ S Việt Nam khi ấy kéo dài tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Biển Đông khi ấy chỉ là một biển hồ nước mặn, chiều dài khoảng 500km. Các hệ thống sông của Việt Nam, kể cả sông Cửu Long cũng chảy vào biển hồ này. Các vùng cửa sông ra biển là có nhiều thực phẩm như tôm cua ốc... và có nhiều cây thuộc họ sung vả cung cấp đường, tinh bột. Đây là nơi thuận lợi cho người tiền sử sinh sống. Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy khoảng 20 nghìn năm về trước dòng người tiền sử đã di cư qua vùng Lương Sơn (Hòa Bình), quan hang Con Moong, qua núi Đọ. Có lẽ họ đã ra tới bờ của biển hồ Biển Đông. Dòng người tiền sử này thuộc nhóm AustroAsia di cư qua vùng Môn (Munda).
Tiếp theo khoảng thời gian từ 20 nghìn năm về trước cho tới 7 nghìn năm về trước mực nước biển dâng cao dần và dừng lại cho tới tận ngày nay. Người tiền sử sống quanh hồ Biển Đông lui dần vào vùng cao. Dòng người lui về phía bắc dãy Đông Triều là người Bách Việt. Họ bị người Hán đồng hóa. Dòng người di cư về phía nam dãy Đông Triều vào đồng bằng sông Hồng là người Kinh. Phần di cư vào miền Trung Việt Nam là cư dân có tiếng nói thuộc phân nhánh ngữ hệ AustroAsia với người Kinh, bởi họ cùng di cư từ dưới lòng biển hồ lên.
Bản đồ phân bố mật độ dân số các dân tộc thiểu số ở miền Trung cho thấy các dân tộc thiểu số vốn sống ở các cửa sông ven biển đã phải di về phía núi rừng. Có lẽ chúng ta cần kiểm tra lại sự tương đồng ngôn ngữ giữa các dân tộc Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xinh Mun, Xơ Đăng, X’Tiêng.
Sự kiện các dân tộc thiểu số ở miền Trung phân bố ở vùng rừng núi khác với sự kiện các dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc. Các dân tộc thiểu số ở Miền Bắc là dân chạy loạn từ các cuộc chiến chiếm hữu nô lệ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Điều này có thể nhận thấy từ cổ sử Trung Quốc cũng như từ các sự kiện khảo cổ. Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy có sự liên tục về các tầng văn hóa từ hơn 3000 năm về trước cho tới tận đầu Công Nguyên của người Kinh. Người Kinh là chủ nhân của chuỗi liên tục các phân lớp văn hóa Phùng Nguyên (từ 3500 đến 4000 năm về trước), Đồng Đậu, Gò Mun (Phùng Nguyên -> Đông Sơn), Bãi Mèn,... Đình Tràng (Phùng Nguyên -> Đồng Đậu -> Gò Mun -> Đông Sơn,) và Đường Mây, Mả Tre (trống đồng Cổ Loa), Cổ Loa (Đồng Vông, Xuân Kiều, Bãi Mèn, Bãi Sặt, Đình Tràng, Đường Mây).
Như vậy, do không nhận thấy có sự liên tục trong phân lớp văn hóa Chăm Pa từ nhiều nghìn năm trước Công Nguyên ở miền Trung, mà Chăm Pa là người di cư. Sau khi người Chăm Pa vượt qua dãy Trường Sơn vào khoảng trước đầu Công Nguyên, họ đã xâm chiếm vùng đất ven biển, đẩy người bản xứ lên vùng rừng núi.
Hy vọng sau khi phân tích sự tương đồng về văn hóa phi vật thể, cụ thể là tục chôn người và sự gần nhau về ngôn ngữ, chúng ta có thể kiểm định được sơ đồ nói trên về sự xuất hiện của người Chăm Pa.
Rất mệt.
Mong các bạn nhìn nhận lịch sử một cách khách quan, không có sự hận thù, bởi đó là sự vận động của loài người. Lịch sử nên là tình yêu, bởi chúng ta đều có chung một tổ tiên từ rất nhiều triệu năm về trước.
Công việc còn rất nhiều. Mong các bạn hỗ trợ tôi để tôi có thể làm tiếp được việc này.
19020911085021 TECHCOMBANK
Nguyễn Lê Anh.
Các tính toán và lập trình do bạn Đức Dư thực hiện.

Nhận xét
Đăng nhận xét